Mục lục

19. Băng bó

a) Nguyên tắc băng

  • Băng ngay sau khi bị thương;
  • Băng đúng vết thương và băng kín vết thương;
  • Băng chặt vừa phải, vừa để bảo vệ vết thương vừa có tác dụng cầm máu;
  • Không làm bẩn vết thương khi băng;
  • Khi sử dụng băng cần hết sức tiết kiệm.

b) Các kiểu băng vết thương

  • Băng vòng xoắn: Băng vòng xoắn là đưa cuộn băng đi nhiều vòng theo hình xoắn của lò xo, từ dưới lên trên. Kiểu băng này đơn giản, dễ làm nhưng có nhược điểm là không áp dụng được rộng rãi ở nhiều vùng khác nhau trên cơ thể như vai, nách, bẹn, mông, cẳng tay, gót chân, cẳng chân, đùi.
  • Băng số 8: Băng số 8 là băng theo kiểu đưa cuộn băng đi theo hình số 8 (hoặc hình hai vòng đối xứng). Kiểu băng số 8 phức tạp hơn kiểu băng vòng xoắn, nhưng áp dụng được rộng rãi ở nhiều vùng khác nhau như: vai, nách, bẹn, mông, cẳng tay, gót chân, cẳng chân, đùi,…Tùy theo vị trí định băng, cách đưa cuộn băng theo hình số 8 khác nhau.

c) Thực hành băng bó vết thương ở một số vị trí

Băng một bên ngực (băng theo kiểu số 8): Vòng đầu băng quanh ngực đi theo đường dưới vú. Đưa vòng băng bắt chéo, qua trước ngực bị thương, vòng lên phía vai bên ngực không bị thương ra sau lưng. Băng liên tiếp từ dưới lên trên, một vòng quanh ngực, lại đến một vòng bắt chéo qua vai. Buộc hoặc gài kim băng đầu cuối cuộn băng.

d760129e bang dau nguc kieu so 8
Băng tay, đầu, ngực kiểu số 8

Băng ngực: Đặt đường băng đầu tiên đi chéo từ dưới rốn lên vai trái, vòng ra sau lưng, đầu băng để thừa một đoạn để buộc. Băng theo kiểu vòng xoắn quanh ngực từ dưới lên trên, các vòng băng xiết tương đối chặt, nhất là các vết thương ngực hở. Đường băng cuối cho vòng ra sau lưng, vắt qua vai phải, ra trước để buộc với đầu băng kia. Khi có vết thương ngực hở, máu và không khí phì ra ngoài qua miệng vết thương, phải khẩn trương tiến hành băng kín, nhằm cứu sống tính mạng người bị thương. Thứ tự các thao tác băng kín vết thương ngực hở như sau:

  • Xác định vết thương bằng cách cởi áo hoặc vén áo. Đặt gạc vô khuẩn phủ kín miệng vết thương, đồng thời dùng lòng bàn tay ép chặt miếng gạc vào thành ngực, cho máu và không khí không phì ra ngoài. Dùng miếng ni–lon rộng hoặc vỏ ngoài băng cá nhân ép bên ngoài miếng gạc.
  • Băng vết thương ngực theo kiểu vòng xoắn như trên.
  • Đặt người bị thương ở tư thế nửa nằm, nửa ngồi cho dễ thở.
5eddb556 a1
Băng ngực kiểu vòng xoắn

Băng bụng: Đặt gạc phủ kín vết thương. Khi có lòi phủ tạng, cuốn gạc thành vòng tròn như vành khăn để bao quanh vết thương (hoặc dùng bát bọc gạc úp lên vết thương). Băng hai vòng tròn qua giữa vành khăn. Sau đó băng theo kiểu số 8, một vòng đi trên vành khăn, một vòng đi dưới vành khăn cho đến khi kín vết thương. Buộc chặt hoặc gài kim băng đầu cuối của cuộn băng.

Băng bẹn, mông (băng theo kiểu số 8): Băng hai vòng đầu ở 1/3 từ trên xuống của đùi, để cố định đầu băng. Đưa cuộn băng đi theo hình số 8 vòng trên của số 8 cuốn trên hai mào chậu, bắt chéo ở trước bẹn, rồi vắt ra sau đùi; đặt nhiều vòng số 8 cho đến khi che kín vết thương. Buộc hoặc gài kim băng đầu cuối của cuộn băng. Băng mông cũng như băng bẹn nhưng phải đặt người bị thương nằm sấp và cho số 8 bắt chéo ở vùng mông.

Băng đầu gối, gót chân, mỏm khuỷu: Động tác thực hành như kiểu băng bụng, vòng băng đầu qua giữa gối, các vòng băng sau đưa liên tiếp, một vòng trên gối lại một vòng dưới gối.

Băng nếp khoeo, nếp khuỷu (băng theo kiểu số 8, bắt chéo ở vùng khoeo): Vòng băng đầu tiên đi từ vòng tròn ở đầu trên cẳng chân. Đưa cuộn băng bắt chéo qua khoeo, vòng lên trên đầu gối; băng vòng tròn ở trên đầu gối, rồi lại cho bắt chéo xuống cẳng chân và cứ thế liên tiếp.

Băng bàn chân, bàn tay (băng theo kiểu số 8): Băng vòng tròn đầu tiên ở sát đầu ngón chân. Đưa cuộn băng đi theo hình số 8, vòng sau cổ chân và bắt chéo ở mu chân. Buộc hoặc gài kim băng ở đầu cuối cuộn băng. Băng bàn tay cũng như bàn chân, nhưng đường băng bắt chéo ở gan bàn tay.

Băng trán (kiểu vành khăn): Đường băng đi theo vòng tròn, từ trán ra sau gáy, sao cho đường băng ở trán nhích dần từ trên xuống dưới và đường băng ở sau gáy nhích dần từ dưới lên trên.

Băng đầu: Buộc đầu ngoài của băng vào vai trái làm điểm tựa. Đầu cuộn băng vắt ngang đầu từ trái sang phải và làm một vòng quai xoắn ở mang tai phải. Đưa cuộn băng đi vòng tròn quanh đầu; sau đó băng qua đầu từ phải sang trái và trái sang phải, xoắn qua hai đầu băng ở hai bên mang tai, các đường băng nhích dần từ giữa ra trước trán và ra sau gáy. Buộc đầu cuối của băng với đầu ngoài ở vai trái thành vòng quai mũ dưới cằm. Băng đầu kiểu quai mũ có ưu điểm là dễ làm, chỉ dùng một cuộn băng. Cũng có thể băng kiểu quai mũ bằng cách đưa các đường băng nhích dần từ trán và gáy vào giữa đầu.

Băng một mắt: Băng theo kiểu số 8, vòng quanh trán, một vòng bắt chéo qua mắt bị thương, rồi cứ thế băng liên tiếp.

f755f66b cac kieu bang vong
Các kiểu băng vòng xoắn

20.Chuyển thương

a. Chuyển thương binh bằng tay và bằng đai

Chuyển thương binh bằng tay và bằng đai thường do một người làm và được áp dụng ở cự li gần: cõng thương binh, bế thương binh, dìu thương binh, vác thương binh. Chú ý không áp dụng phương pháp này chuyển thương binh gãy xương cột sống, vỡ xương chậu và gãy xương đùi.

b. Chuyển thương bằng cáng

  • Cáng khiêng tay (cáng cứng: cáng chuyên dụng, phên tre,…).
  • Cáng khiêng vai (cáng võng bạt, dù,…).
0b2aed44 cang chuyen thuong
Các loại cáng chuyển thương
  • Cách cáng thương:
  • Đặt người bị thương lên cáng: Đặt cáng bên cạnh người bị thương, luồn tay dưới người bị thương, nhấc từ từ và đặt lên cáng; buộc dây cáng.
  • Chuyển thương: Khi cáng trên đường bằng hai tải thương cần tránh đi cùng nhịp để cho cáng khỏi lắc lư. Khi cáng trên đường dốc, phải cố gắng giữ cho đòn cáng được thăng bằng hoặc đầu người bị thương hơi cao hơn chân.

* Chú ý:

– Những thương binh có ga rô phải được nới đúng thời gian qui định.

– Với những thương binh bị thương ở bụng phải đặt tư thế nằm ngửa, chân hơi co lại để ép bụng tránh phủ tạng lòi ra ngoài.

– Với những vết thương vùng ngực phải đặt thương binh nửa nằm, nửa ngồi giúp thương binh dễ thở.

– Với những thương binh vùng cột sống, xương chậu, gãy xương đùi phải chuyển bằng cáng cứng.

21. Các biện pháp cầm máu tạm thời

Gấp chi tối đa: Khi chi bị gấp mạnh, động mạch cũng bị gấp và đè ép bởi các khối cơ bao quanh, làm cho máu ngừng chảy.

Ấn động mạch: Ấn động mạch là động tác dùng ngón tay ấn chặt vào động mạch, trên đoạn lưu thông của máu từ tim đến vết thương. Động mạch bị ép chặt giữa ngón tay và nền xương làm cho máu ngừng chảy ngay tức khắc.

fc104c9b phuong phap an dong mach.
Phương pháp ấn động mạch

Các cách băng cầm máu tạm thời

a. Băng ép

Là phương pháp băng vết thương với các vòng băng xiết tương đối chặt đè ép mạnh vào bộ phận tổn thương tạo điều kiện cho việc nhanh chóng cho việc hình thành các cục máu làm cho máu ngưng chảy ra ngoài.
Cách tiến hành băng ép:
 – Đặt một lớp gạc và bông hút phủ kính vết thương.
 – Đặt một lớp băng mỡ dày phủ trên lớp bông gạc.
 – Băng theo kiểu vòng xoắn hoặc số 8 (nên dùng loại băng thun vì băng này có tính chun giản tốt)

b. Băng chèn

Bằng chèn cũng là kiểu đè ép như ấn động mạch, nhưng không phải bằng ngón tay mà bằng một vật cứng tròn, nhẵn không sắc cạnh, gọi là con chèn, con chèn được dặt vào vị trí trên đường đi của động mạch, càng sát vết thương càng tốt, sau đó cố định con chèn bằng nhiều vòng băng xiết tương đối chặt. Các vị trí có thể băng chèn tương tự như vị trí ấn động mạch.

c. Băng nút

Băng nút là cách băng ép, có dùng thêm bấc gạc đã diệt khuẩn, nhét chặt vào miệng vết thương tạo thành cái nút để cầm máu.
Nút càng chặt làm tăng sức đè ép vào các mạch máu, tác dụng cầm máu càng tốt.

3935f0bd b

thương và tim, càng sát vết thương càng tốt, sau đó, băng cố định con chèn bằng nhiều vòng băng siết tương đối chặt theo kiểu vòng xoắn hoặc số 8.

Ga rô: là biện pháp cầm máu tạm thời bằng dây cao su hoặc dây vải xoắn chặt vào đoạn chi, để làm ngừng lưu thông máu từ phía trên xuống phía dưới của chi. Việc thực hiện không đúng cách có thể làm cả đoạn chi bị hoại tử, phải cắt bỏ.

  • Chỉ được phép làm ga rô trong các trường hợp sau đây:
  • Vết thương ở chi chảy máu ồ ạt, phun thành tia hoặc trào xối qua vết thương.
  • Chi bị cắt cụt.
7a96a944 cam mau bang gao
Cầm máu bằng ga rô
  • Vết thương phần mềm hoặc gãy xương, có kèm theo tổn thương các động mạch lớn.
  • Cách đặt ga rô:
  • Ấn động mạch ở phía trên vết thương.
  • Lót vải hoặc gạc ở chỗ chỉ định đặt ga rô hoặc dùng ngay quần áo để lót.
  • Đặt ga rô và xoắn đầu (nếu là dây vải); bỏ tay ấn động mạch, rồi vừa xoắn vừa theo dõi mạch ở dưới hoặc theo dõi chảy máu ở vết thương; nếu mạch ngừng đập hoặc máu ngừng chảy là được.
  • Cuối cùng băng vết thương và làm các thủ tục hành chính cần thiết.
  • Những nguyên tắc phải chấp hành khi đặt ga rô
  • Garô phải đặt sát ngay phía trên vết thương và để lộ ra ngoài. Tuyệt đối không để ống quần, tay áo hay vật gì khác che lấp ga rô, làm cho người vận chuyển và tuyến sau khó thấy, có thể bỏ qua không xử lý ưu tiên.
  • Người bị đặt ga rô phải được nhanh chóng chuyển về tuyến sau. Trên đường vận chuyển, cứ 1 giờ phải nới ga rô một lần, trong điều kiện không cho phép cũng không nên để ga rô lâu quá 3 – 4 giờ.
  • Phải chấp hành triệt để những qui định về ga rô: Ghi rõ ngày giờ ga rô, giờ nới ga rô lần một, giờ nới ga rô lần hai, họ tên bệnh nhân. Cần có kí hiệu bằng dải vải đỏ cài vào túi áo trên bên trái (đó là kí hiệu cho những bệnh nhân cần chuyển nhanh và xử trí khẩn cấp).

* Nới ga rô

Những trường hợp sau đây không nới ga rô:

  • Khi chi đã bị cắt cụt.
  • Khi đoạn chi ở dưới ga rô có dấu hiệu hoại tử có thể dẫn đến choáng, nhiễm độc và tử vong.
  • Người phụ ấn động mạch ở phía trên ga rô. Người chính nới dây ga rô, nới rất từ từ, vừa nới vừa theo dõi sắc mặt người bị thương, tình hình máu chảy ở vết thương, mạch và màu sắc đoạn chi ở dưới ga rô. Khi nới ga rô được khoảng 4 ÷ 5 phút hoặc thấy bệnh nhân biến sắc, máu chảy nhiều thì phải thít chặt ga rô lại ngay.
  • Đặt lại dây ga rô: khi buộc lại không đặt ở chỗ cũ mà nhích lên (nhích xuống) một ít để khỏi gây lằn da thịt và thiếu máu kéo dài ở chỗ đặt ga rô.

22. Cấp cứu ban đầu vết thương gãy xương

a. Đặc điểm:

Gãy xương là một tình trạng mất tính liên tục của xương, nó có thể biểu hiện dưới nhiều hình thức từ một vết rạn cho đến một sự gãy hoàn toàn của xương.

Gãy xương được chia làm hai loại chính: gãy xương kín và gãy xương hở, cả hai đều có thể là gãy xương biến chứng.

  • Gãy xương kín: là loại gãy xương mà tổ chức da ở vùng xung quanh ổ gãy không bị tổn thương hoặc có thể tổn thương nhưng không thông với ổ gãy.
  • Gãy xương hở: da bị rách, phần mềm xung quanh bị dập nát, có thể nhìn thấy đầu xương gãy hoặc một số mảnh xương vụn theo vết thương ra ngoài, chi bị gãy không tự vận động được và bị biến dạng so với bên lành.

b. Biến chứng:

  • Nạn nhân có thể cảm thấy hoặc nghe thấy tiếng kêu “răng rắc” của xương gãy.
  • Ðau ở chỗ chấn thương hoặc gần vị trí đó. Ðau tăng khi vận động.
  • Giảm hoặc mất hoàn toàn khả năng vận động.
  • Có phản ứng tại chỗ gãy khi ấn nhẹ lên vùng bị thương.
  • Sưng nề và sau đó bầm tím ở vùng chấn thương.
  • Biến dạng tại vị trí gãy: ví dụ chi gãy bị ngắn lại, gập góc hoặc xoắn vặn,...
  • Khi khám có thể nghe hoặc cảm thấy tiếng lạo xạo của hai đầu xương gãy cọ vào nhau. Không được cố gắng tìm dấu hiệu này vì làm nạn nhân rất đau.
  • Có thể có triệu chứng của sốc. Tình trạng sốc thường xảy ra và được nhận thấy rõ trong các trường hợp gãy xương đòn hoặc vỡ xương chậu.
  • Da thịt bị rách nát, tổn thương, nhiều trường hợp kèm theo các tổn thương phầm mềm rộng lớn.
  • Khi gãy xương, không những các mạch máu trong xương bị tổn thương gây chảy máu ri rỉ kéo dài mà còn có thể kèm theo tổn thương các động mạch cơ, tổn thương các bó mạch thần kinh lớn.
  • Choáng do thiếu máu và do đau đớn trong quá trình vận chuyển, một số trường hợp choáng nặng có thể dẫn đến tử vong, nhất là choáng do gãy xương đùi.
  • Gây thêm tổn thương mới cho người bị thương, do các đầu xương gãy sắc nhọn bị di động trong khi vận chuyển có thể làm rách mạch máu và các dây thần kinh gần đó.

c. Cách cấp cứu ban đầu:

  • Cầm máu, băng bó.
  • Cố định xương bị gãy.
  • Chuyển thương binh về tuyến sau.

Nguyên tắc cố định tạm thời:

  • Không đặt nẹp trực tiếp lên da thịt nạn nhân, phải có đệm lót ở đầu nẹp, đầu xương (không cởi quần áo, cần thiết rạch theo đường chỉ).
  • Cố định trên dưới ổ gãy, khớp trên và dưới ổ gãy, riêng xương đùi bất động ba khớp.
a13da409 co dinh xuong bi gay
Cố định xương bị gãy
  • Bất động ở tư thế cơ năng: Chi trên treo tay vuông góc, chi dưới duỗi thẳng 180o.
  • Trường hợp gãy kín phải kéo chi liên tục bằng một lực không đổi trong suốt thời gian cố định.
  • Trường hợp gãy hở: Không được kéo nắn ấn đầu xương gãy vào trong, nếu có tổn thương động mạch phải đặt ga rô tùy ứng, xử trí vết thương để nguyên tư thế gãy mà cố định.
  • Băng cố định nẹp phải tương đối chặt, không để nẹp xộc xệch, nhưng cũng không quá chặt làm trở ngại tuần hoàn máu chi.
  • Sau khi cố định buộc chi gãy với chi lành thành một khối thống nhất.
  • Nhanh chóng, nhẹ nhàng, vận chuyển nạn nhân đến cơ sở điều trị.

23.Cấp cứu ban đầu ngạt thở

a. Ngạt thở thường gặp trong các trường hợp sau:

  • Do ngã xuống nước và bị nước nhấn chìm, chỉ sau hai, ba phút sẽ ngạt thở.
  • Do bị vùi lấp như: sập hầm, đất cát vùi lấp khi bom nổ…, nhất là khi ngực bị ép đè, mũi miệng bị đất cát nhét kín, có thể bị ngạt thở nhanh chóng.
  • Do trúng phải khí độc.
  • Do ở lâu trong các hầm kín chật hẹp, có thể bị ngạt thở do thiếu oxy và hít phải nhiều khí độc như CO2.
  • Ngạt thở do tắc các đường hô hấp như thắt cổ, bị bóp cổ, do đờm dãi hoặc máu ở những vết thương hàm mặt gây tắc thở.

b. Nhận biết người ngạt thở:

Hô hấp ngừng hoạt động, người bị nạn nằm yên, không tỉnh, không cử động; sắc mặt trắng nhợt hoặc tím tái, chi giá lạnh, tim ngừng đập, mạch không sờ thấy; đặt chiếc lông gà hoặc miếng giấy trước mũi không thấy chuyển động.

c. Cách xử trí:

  • Loại bỏ nguyên nhân gây ngạt thở như: bới đất cát cho người bị vùi lấp, vớt người chết đuối, đưa người bị trúng độc ra khỏi vùng có khí độc, ra khỏi buồng kín…
  • Nhanh chóng giải phóng cho các đường hô hấp trên khỏi các vật trở ngại như:

* Lau chùi đất, máu hoặc đờm dãi ở mũi miệng, khi cần hút trực tiếp bằng miệng cho sạch đờm, dãi.

  • Nới hoặc tháo bỏ quần áo và các dây nịt quanh người bị nạn.
  • + Tiến hành hô hấp nhân tạo.

d. Những điểm cần chú ý khi làm hô hấp nhân tạo:

  • Làm rất kiên trì cho đến khi hô hấp tự nhiên được hồi phục, có trường hợp phải làm tới 1 – 2 giờ, tuyệt đối không chuyển người bị ngạt thở đi viện khi hô hấp tự nhiên chưa hồi phục.
  • Làm đúng nguyên tắc, không vội vàng, không làm ẩu, giữ đúng tốc độ.
  • Làm ở chỗ thoáng khí, không để nhiều người chen chúc xung quanh, không để nằm ở chỗ giá lạnh.
  • Không làm hô hấp nhân tạo cho người bị nhiễm chất độc hóa học gây phù phổi cấp tính.
  • Những việc làm đồng thời với hô hấp nhân tạo: chống choáng, sưởi ấm, tiêm thuốc trợ tim (khi có điều kiện).

e. Các phương pháp hô hấp nhân tạo:

a.Thổi ngạt:

Đặt người bị nạn nằm ngửa, người cấp cứu quỳ bên cạnh, sát ngang vai. Dùng một ngón tay quấn vải sạch, đưa vào trong miệng để lau hết đờm, dãi.

Người cấp cứu một tay bóp kín hai bên mũi, một tay đẩy mạnh cằm cho miệng hé ra, hít hơi thật mạnh rồi áp miệng mình sát miệng người bị nạn thổi ra mạnh. Làm liên tiếp như thế với nhịp độ 15 ÷ 20 lần/ phút.

b. Ép tim ngoài lồng ngực:

Người cấp cứu quỳ bên phải ngang thắt lưng người bị nạn.
    * Đặt bàn tay phải chồng lên bàn tay trái, các ngón tay xen kẻ nhau, đè lên 1/3 dưới xương ức, các ngón tay chếch sang bên trái.
    * Ép mạnh bằng sức nặng của cơ thể xuống xương ức của người bị nạn với một lực vừa đủ để lồng ngực lún xuống 2-3 cm. Với trẻ nhỏ lực ép nhẹ hơn.
    * Sau mỗi lần ép thả lỏng tay cho ngực trở lại vị trí bình thường. Duy trì với nhịp độ 50 -60 lần/phút.
    * Trong trường hợp chỉ có một người làm nên duy trì 2 lần thổi ngạt, 15 lần ép tim.
  Trường hợp có hai người làm, người thổi ngạt quỳ bên trái, người ép tim quỳ bên phải người bị nạn và duy trì 1 lần thổi ngạt, 5 lần ép tim.
  Làm liên tục cho đến khi người bị nạn tự thở được, tim đập lại thì dừng.

c. Phương pháp Sylveter:

+ Người bị nạn nằm ngữa, đầu quay về một bên có chăn hoạc gối đệm dưới lưng.
      + Người cấp cứu quỳ ở phía đầu, nắm chặt lấy hai cổ tay người bị nạn.
      + Thì thở ra: Đưa hai cẳng tay người bị nạn gập vào trước ngực, người cấp cứu hơi nhổm về trước, tay duỗi thẳng ép mạnh để làm cho không khí ở trong phổi ra ngoài.
  + Thì hít vào: Người cấp cứu ngồi xuống đồng thời kéo hai cổ tay người bị nạn dang rộng ra tới chạm đầu rồi lại đưa về tư thế ban đầu làm cho không khí ở bên ngoài vào trong phổi.
     + Làm với nhịp độ 10 -12 lần/phút
  * Những điểm chú ý khi làm hô hấp nhân tạo
   – Làm càng sớm càng tốt , kiên nhẫn cho đến khi nạn nhân thở được. Thông thường làm trong thời gian 40 – 60 phút, không có hiệu quả thì dừng.
  – Làm đúng nguyên tắc, lực đủ mạnh, giữ nhịp đều đặn mới thực sự hữu hiệu.
– Làm tại chổ thông thoáng, nhưng cũng không làm ở chổ giá lạnh
   – Không được làm hô hấp nhân tạo cho người bị nhiểm chất độc hóa học, bị sức ép, bị thương ở ngực, gãy xương sườn và tổn thương cột sống.
– Tuyệt đối không được chuyển người ngạt thở về các tuyến sau, khi nạn nhân chưa tự thở được.
   * Tiến triển của việc cấp cứu ngạt thở.

146e8264 unnamed
Các phương pháp hô hấp nhân tạo

24.Vết thương do bỏng

Có nhiều nguyên nhân gây nên bỏng như bỏng do lửa, do hơi nóng, hóa chất và các tia phóng xạ… Vết thương bỏng có thể làm chết người hoặc để lại những di chứng nặng nề như mất chức năng vận động, biến dạng mất thẩm mỹ.

Bỏng được phân loại theo độ sâu thành ba độ:

  • Bỏng bề mặt (độ 1): Trường hợp này chỉ lớp ngoài cùng da bị tổn thương làm cho da nơi bị bỏng đỏ ửng lên và đau rát do đầu mút dây thần kinh bị kích thích. Loại bỏng này thường lành hẳn sau 3 ngày.
  • Bỏng một phần da (độ 2): Trường hợp này thì lớp biểu bì và một phần của lớp chân bì bị tổn thương, các túi phỏng nước được hình thành, nếu các túi phỏng nước vỡ ra sẽ để lộ một bề mặt màu hồng và cũng rất đau. Nếu được giữ sạch vết bỏng sẽ tự lành sau khoảng 1 – 4 tuần không cần điều trị gì mà cũng không để lại sẹo hoặc sẹo nhưng không đáng kể. Tuy nhiên tổ chức da sau khi lành vết bỏng có thể đỏ trong một thời gian dài hơn, nếu bị nhiễm khuẩn thì lớp da dưới sẽ bị phá hủy và bỏng độ 2 chuyển thành bỏng độ 3.

+ Bỏng toàn bộ các lớp da (độ 3): Toàn bộ các lớp da đều bị tổn thương bao gồm cả lỗ chân lông và tuyến mồ hôi. Vết bỏng trắng nhợt hoặc xám lại, khô cứng và mất cảm giác (không đau), các đầu nút dây thần kinh bị phá hủy, lớp mỡ dưới da cũng có thể bị phá hủy và để lộ phần cơ, các vết bỏng rất dễ bị nhiễm khuẩn do vậy thời gian lành vết bỏng thường kéo dài rất lâu.

  • Cách sơ cứu:

Dập tắt lửa đang cháy trên quần áo và làm mát vết bỏng: Ðây là việc làm trước hết để tránh cho nạn nhân bị bỏng sâu và rộng thêm. Dùng nước hoặc cát để dập tắt lửa, hoặc có thể dùng áo khoác, chăn, vải bọc kín chỗ đang cháy để dập lửa (không dùng vải nhựa, ni lông để dập lửa). Chú ý: không dùng nước đá để làm mát vết bỏng hoặc ngâm toàn bộ cơ thể vào trong nước lạnh.

Phòng chống sốc: Đặt nạn nhân ở tư thế nằm, động viên an ủi nạn nhân, cho nạn nhân uống nước vì nạn nhân rất khát nhất là khi phải chuyển nạn nhân đi xa. Chú ý chỉ cho nạn nhân uống nước khi nạn nhân tỉnh táo, không bị nôn và không có những chấn thương khác. Nếu có điều kiện nên cho nạn nhân uống dung dịch: nước chè đường, nước trái muối, đường hoặc oreson.

Phòng chống nhiễm khuẩn: Bản thân vết bỏng là vô khuẩn. Do vậy khi cấp cứu bỏng phải rất thận trọng để tránh vết bỏng bị nhiễm bẩn: không dùng nước không sạch để dội hoặc đắp vào vết bỏng, có điều kiện người cấp cứu nên rửa tay sạch và tránh động chạm vào vết bỏng.

Băng vết bỏng:

  • Không dược bôi dầu mỡ, dung dịch cồn ngay cả kem kháng sinh vào vết bỏng.
  • Không được chọc phá các túi phỏng nước.
  • Không được bóc da hoặc mảnh quần áo dính vào vết bỏng.
  • Nếu có điều kiện thì phủ vết bỏng bằng gạc vô khuẩn, nếu không thì dùng vải càng sạch càng tốt.
  • Vết bỏng sẽ chảy rất nhiều dịch nên trước khi dùng băng co giãn để băng vết bỏng lại thì phải đệm một lớp bông thấm nước lên trên gạc hoặc vải phủ vết bỏng.

* Cách sơ cứu một số trường hợp bỏng đặc biệt

  • Bỏng điện: điện giật hoặc sét đánh có thể gây bỏng rất sâu, một số bệnh nhân bị bỏng điện thì cơ thể cũng bị ngừng tim do dòng diện đánh vào tim, do vậy phải tiến hành cấp cứu ngừng tim ngay (nếu nạn nhân bị ngừng tim) rồi mới sơ cứu vết bỏng sau. Khi sơ cứu vết bỏng xong phải nhanh chóng chuyển nạn nhân tới ngay bệnh viện vì những bệnh nhân bị điện giật rất dễ có rối loạn về tim mạch.
  • Bỏng hóa chất: với những loại bỏng do hóa chất phải rửa ngay, rửa liên tục bằng nước càng nhiều càng tốt, nếu không các tổ chức ở vùng bỏng sẽ bị hoại tử hoàn toàn. Nếu xác định được nguyên nhân gây bỏng là do axit thì rửa vết bỏng bằng nước có pha bicacbonat. Nếu bỏng là do kiềm thì rửa bằng nước có pha giấm, chanh. Nhưng nếu bỏng mắt do hóa chất chỉ được rửa bằng nước sạch.

25. Bong gân

a. Đại cương:

– Hầu hết các khớp trong cơ thể là khớp động, các khớp tạo nên do các đầu xương áp sát vào nhau. Ở mỗi khớp bao giờ cũng có các dây chằng để tăng cường cho bao khớp và giữ thẳng góc cho hoạt động của khớp. Tùy khớp lớn hay bé, hoạt động nhiều hay ít mà dây chằng có cấu tạo khác nhau.

– Bong gân là sự tổn thương của dây chằng chung quanh khớp do chấn thương gây nên. Các dây chằng có thể bong ra khỏi chỗ bám, bị rách hoặc đứt, nhưng không làm sai khớp.

– Các khớp thường bị bong gân: khớp cổ chân, ngón chân cái, khớp gối, khớp cổ tay.

45dcfc84 bong gan

b. Triệu chứng:

– Đau nhức nơi tổn thương là triệu chứng quan trọng nhất và sớm nhất. Đau nhói khi cử động và khu trú vào một điểm, một vùng.

– Sưng nề to, có thể có bầm tím dưới da (do chảy máu).

– Chiều dài chi bình thường, không biến dạng.

– Vận động khó khăn, đau nhức.

– Tại khớp bị tổn thương có khi rất lỏng lẻo mà bình thường không có tình trạng đó.

c. Cấp cứu ban đầu và đề phòng:

Cấp cứu ban đầu:

+ Băng ép nhẹ chống sưng nề, giảm tình trạng chảy máu và góp phần cố định khớp.

+ Chườm lạnh (chườm đá) bằng túi chườm hoặc bọc nước đá áp vào vùng khớp.

+ Bất động chi bong gân, cố định tạm thời bằng các phương tiện.

+ Trường hợp bong gân nặng, chuyển ngay đến các cơ sở y tế để cứu chữa bằng các phương pháp chuyên khoa.

Đề phòng.

+ Đi lại, chạy nhảy, lao động luyện tập đúng tư thế.

26. Sai khớp

a. Đại cương

57ddee95 sai khop

– Sai khớp là sự di lệch các đầu xương ở khớp một phần hay hoàn toàn do chấn thương mạnh một cách trực tiếp hoặc gián tiếp gây nên.

– Sai khớp thường xảy ra ở người lớn hoặc trẻ lớn khi xương đã phát triển.

– Các khớp bị sai là: Khớp vai, khớp khuỷu, khớp háng, khớp càng lớn khi sai khớp tình trạng càng nặng.

b. Triệu chứng

– Đau dữ dội, liên tục nhất là lúc đụng vào khớp hay lúc nạn nhân cử động.

– Mất vận động hoàn toàn, không gấp, duỗi được.

– Khớp biến dạng, đây là dấu hiệu chắc chắn dễ nhận biết và rất có giá trị trong chuẩn đoán, đầu xương lồi ra, có thể sờ thấy ở dưới da.

– Chi ở tư thế không bình thường, dài ra hoặc ngắn lại, thay đổi hướng tùy theo vị trí từng loại khớp.

– Sưng nề to quanh khớp.

– Tím bầm quanh khớp (có thể gãy hoặc rạn xương vùng khớp).

c. Cấp cứu ban đầu và đề phòng

Cấp cứu ban đầu.

+ Bất động khớp bị sai, giữ nguyên tư thế sai lệch.

+ Chuyển ngay nạn nhân đến các cơ sở y tế để cứu chữa.

Đề phòng.

+ Quá trình lao động, luyện tập, hoạt động phải chấp hành nghiêm quy định bảo đảm an toàn.

27. Ngất

a. Đại cương

– Ngất là tình trạng chết tạm thời, nạn nhân mất tri giác, cảm giác và vận động, đồng thời tim, phổi và bài tiết ngừng hoạt động.

– Cần phân biệt với hôn mê, mặc dù người hôn mê cũng mất tri giác, cảm giác và vận động, song tim, phổi, bài tiết vẫn còn hoạt động.

– Có nhiều nguyên nhân gây ngất: cảm xúc quá mạnh, chấn thương nặng, mất máu nhiều, ngại (do thiếu oxi), người có bệnh tim, người bị say sóng, say nắng…

b. Triệu chứng

– Nạn nhân tự nhiên thấy bồn chồn, khó chịu, mặt tái, mắt tối dần, chóng mặt, ù tai, ngã khuỵu xuống bất tỉnh.

– Toàn thân toát mồ hôi, chân tay lạnh, da xanh tái.

– Phổi có thể ngừng thở hoặc thở rất yếu.

– Tim có thể ngừng đập hoặc đập rất yếu, huyết áp hạ.

– Thường nạn nhân bao giờ cũng ngừng thở trước rồi ngừng tim sau.

c. Cấp cứu ban đầu và đề phòng

* Cấp cứu ban đầu

– Đặt nạn nhân nằm ngay ngắn tại nơi thoáng khí, yên tĩnh, tránh tập trung đông người, kê gối (hoặc chăn, màn…) dưới vai cho đầu hơi ngửa ra sau.

– Lau chùi đất, cát, đờm dãi (nếu có) ở mũi, miệng để khai thông đường thở.

– Cởi cúc áo, quần, nới dây lưng để máu dễ lưu thông.

– Xoa bóp lên cơ thể, tát vào má, giật tóc mai, nếu có điều kiện cho ngửi a-mô-ni-ắc, dấm, hoặc đốt bồ kết thổi nhẹ cho khói bay vào hai lỗ mũi để kích thích, nếu nạn nhân hắt hơi được sẽ tỉnh.

– Nếu nạn nhân đã tỉnh, chân tay lạnh có thể dùng nước gừng tươi, nước tỏi hòa với rượu và nước lã đun sôi cho uống.

– Nếu nạn nhân chưa tỉnh, nhanh chóng kiểm tra để phát hiện sớm dấu hiệu ngừng thở, ngừng tim như:

+ Vỗ nhẹ vào người nêu nạn nhân không có phản ứng gì là mất tri giác, cảm giác và vận động.

+ Áp má vào mũi, miệng nạn nhân, nhìn xuôi xuống ngực nếu thấy lồng ngực, bụng không phập phồng, tai mũi, miệng không có hơi ấp, có thể thở rất yếu hoặc đã ngừng thở.

+ Bắt ngay mạch bẹn (hoặc mạch cảnh) không thấy mạch đập, có thể đã ngừng tim (thời gian kiểm tra không được kéo dài quá 1 phút).

– Nếu xác định nạn nhân đã ngừng thở, ngừng tim, cần tiến hành ngay biện pháp: thổi ngạt và ép tim ngoài lồng ngực, cứ thổi ngạt 1 lần, ép tim 5 lần (nếu có 2 người làm) hoặc thổi ngạt 2 lần, ép tim 15 lần (nếu chỉ có 1 người làm), phải làm khẩn trương, liên tục, kiên trì, khi nào nạn nhân tự thở được, tim đập lại mới dừng.

* Đề phòng

– Phải bảo đảm an toàn, không để xảy ra tai nạn trong quá trình lao động, luyện tập.

– Phải duy trì đều đặn chế độ làm việc, nghỉ ngơi, tránh làm việc căng thẳng, quá sức.

– Phải rèn luyện sức khỏe thường xuyên, nên rèn luyện từ thấp đến cao, từ dễ đến khó, tạo cho cơ thể có thêm khả năng thích ứng dần với mọi điều kiện của môi trường.

28. Điện giật

a. Đại cương

Điện giật có thể làm tim ngừng đập, ngừng thở, gây chết người nếu không được cấp cứu kịp thời. Việc cứu sống nạn nhân chủ yếu do thân nhân, người xung quanh và chỉ có tác dụng trong những phút đầu, do đó mọi người cần phải biết cách cấp cứu điện giật.

b. Triệu chứng

– Có thể tim ngừng đập, ngừng thở và gây tử vong nêu không cấp cứu kịp thời.

– Gây bỏng, có thể bỏng rất sâu, đặt biệt do điện cao thế.

– Gãy xương, sai khớp và tổn thương các phủ tạng do ngã.

c. Cấp cưu ban đầu và cách đề phòng

Cấp cứu ban đầu:

+ Khi còn nguồn điện phải nhanh chóng cắt cầu dao, bỏ cầu chì, dùng sào đẩy dây điện khỏi người bị nạn. Nếu cầm tay, chân nạn nhân kéo ra, người cấp cứu phải đi guốc, giày, dép khô và dùng vật cách điện lót tay.

+ Khi đã tách khỏi nguồn điện, xem ngay tim nạn nhân còn đập không và còn thở không. Nếu không thở, tim không đập phải làm hô hấp nhân tạo và áp tim ngoài lồng ngực ngay, trước đó có thể đập vùng tim, vùng ngực để kích thích.

+ Khi nạn nhân đã thở được và tim đã đập lại thì nhanh chóng chuyển đến bệnh viện gần nhất. Có thể vừa chuyển trên xe vừa làm hô hấp nhân tạo và ép tim ngoài lồng ngực.

Đề phòng:

+ Chấp hành nghiêm các quy định về sử dụng điện.

+ Các thiết bị sử dụng điện phải bảo đảm an toàn.

29. Ngộ độc thức ăn

a. Đại cương

– Ngộ độc thức ăn do nhiều nguyên nhân khác nhau như:

+ Ăn phải nguồn thực phẩm đã bị nhiễm khuẩn: thức ăn ôi, thiu, thịt sống, tái, thịt hộp hỏng, rau sống, hoa quả, nguồn nước… bị ô nhiễm, không được xử lí kĩ trong quá trình chế biến thức ăn.

+ Ăn phải nguồn thực phẩm có chứa sẵn chất độc: nấm độc, sắn…

+ Ăn phải một số thực phẩm dễ gây dị ứng tùy thuộc cơ địa từng người: tôm, cua, dứa…

– Ở nước ta, thường xảy ra vào mùa hè, gây nên những vụ dịch nhỏ, tản phát, có liên quan đến các tập thể: Đơn vị bộ đội, nhà trẻ, một gia đình hoặc một số gia đình trong cùng thôn, xóm…cũng có khi gây thành vụ dịch lớn do môi trường bị ô nhiễm nặng.

b. Triệu chứng.

– Người bị nhiễm độc thức ăn thường xuất hiện với ba hội chứng điển hình là:

+ Hội chứng nhiễm khuẩn, nhiễm độc: sốt 38-39 độ C, có rét run, nhức đầu, mệt mỏi, có khi mê sảng, co giật, hôn mê.

+ Hội chứng viêm cấp đường tiêu hóa: đau bụng vùng quanh rốn, đôi khi lan tỏa khắp ổ bụng, đau quặn bụng. Buồn nôn, nôn nhiều lần trong ngày, nôn ra nước lẫn thức ăn, ỉa chảy nhiều lần, nhiều nước như tháo ra, đôi khi lẫn thức ăn chưa tiêu.

+ Hội chứng mất nước, điện giải: khát nước, môi khô, mắt trũng, gầy sút, mạch nhanh, huyết áp hạ, bụng chướng, chân tay lạnh.

– Với cơ thể khỏe mạnh thường khỏi sau 2-3 ngày, đôi khi ỉa lỏng có thể kéo dài hàng tuần. Với trẻ nhỏ, người già yếu rất dễ gây biến chứng nguy hiểm.

Ngộ độc nấm:         

+ Các triệu chứng đau bụng, nôn, ỉa chảy thường xuất hiện dữ dội, kéo dài hàng ngày làm nạn nhân mất nhiều nước, da khô, khát nước, gầy sút nhanh.

+ Tùy loại nấm độc, có người lả đi, có người thần kinh bị kích thích, nói lung tung như người say rượu, mắt mờ dần. Trường hợp nặng có thể chết do biến chứng tim mạch và thần kinh.

Ngộ độc sắn:

+ Các triệu chứng thường xuất hiện 4-5 giờ sau khi ăn, có khi muộn hàng ngày sau.

+ Thoạt đầu nạn nhân thấy chóng mặt, nhức đầu, choáng váng, người rạo rực khó chịu, sắc mặt tím tái, khó thở.

+ Sau đó xuất hiện đau quặn bụng, nôn nhiều lần, người rất mệt.

Trường hợp nặng các triệu chứng tăng lên, người mệt lả, lịm dần rồi hôn mê, có thể chết vì trụy tim mạch.

Dị ứng do ngộ độc dứa:

Các triệu chứng xuất hiện rất sớm chỉ vài phút đến 1 giờ sau khi ăn :

+ Đau bụng dữ dội, nôn và ỉa chảy rất nhiều lần trong ngày.

+ Ngứa và phát ban khắp người, càng gãi càng ngứa, toàn thân mẩn đỏ và nổi lên các nốt ban. Có khi tạo thành từng mảng đỏ hồng bằng đồng xu, mi mắt sưng húp, bàn tay căng mọng.

+ Trường hợp nhẹ có thể một vài ngày sẽ khỏi, trường hợp nặng có thể hôn mê rồi chết.

c. Cấp cứu ban đầu và đề phòng.

* Cấp cứu ban đầu: Đối với tất cả các trường hợp ngộ độc thức ăn, biện pháp xử trí cấp cứu chung là:

– Chống mất nước:

+ Chủ yếu cho truyền dịch mặn, ngọt đẳng trương 1-2 lít. Chú trong đặc biệt với trẻ nhỏ và người già.

+ Nếu không có điều kiện truyền được, cho uống nhiều nước gạo rang có vài lát gừng.

+ Ngộ độc nấm nên cho uống nước đường, muối hoặc có thể cho uống bột than gỗ đã tán nhỏ (than hoạt).

+ Ngộ độc sắn nên cho uống nước đường, sữa, nước mật mía, mật ong…

– Chống nhiễm khuẩn: Thông thường cho uống Ganidan, Cloroxit, hoặc có thể dùng một số loại kháng sinh như: Amplicilim, Bactrim (cẩn thận với trẻ nhỏ).

– Chống trụy tim mạch và trợ sức: Chủ yếu dùng long não, vitamin B1, C. Ngoài ra có thể dùng thêm các thuốc hạ sốt, an thần.

– Cho nhịn ăn hoặc ăn lỏng 1-2 bữa để ruột được nghỉ ngơi.

Nói chung các loại ngộ độc thức ăn không nên dùng các loại thuốc chống nôn và ỉa chảy, vì đó là phản ứng của cơ thể để thải chất độc ra ngoài (trừ trường hợp ngộ độc nặng và kéo dài). Với các trường hợp ngộ độc nấm, sắn, phải cho nôn hết các phần thức ăn còn lại trong dạ dày, bằng mọi biện pháp: kích thích họng, dùng thuốc gây nôn…

Trường hợp ngộ độc nặng và các loại gây độc nguy hiểm: nấm, sắn, cần chuyển ngay đến các cơ sở y tế để kịp thời cứu chữa.

* Đề phòng:

– Phải đảm bảo tốt vệ sinh môi trường.

– Phải đảm bảo tốt khâu vệ sinh công nghiệp thực phẩm và nội trợ. Chấp hành đầy đủ 10 điều quy định của bộ Y tế về vệ sinh an toàn thực phẩm.

– Không nên để những người đang mắc các bệnh đường tiêu hóa, ngoài da, viêm tai, mũi, họng…làm công việc chế biến thức ăn, trông trẻ…

– Với cá nhân chủ yếu giữ vệ sinh ăn uống :

+ Không ăn sống, tái, ăn các thức ăn đã ôi, thiu, đồ hộp đã hỏng.

+ Phải bảo quản kĩ, không để ruồi, nhặng đậu vào thức ăn.

+ Không ăn nấm tươi, các loại nấm có hại hoặc nấm lạ.

+ Nên ngâm sắn tươi vào nước 1 buổi trước khi luộc ăn.

30. Chết đuối

a. Đại cương

– Chết đuối còn gọi là ngạt nước, một tai nạn thường gặp ở nước ta, nhất là về mùa hè. Người không biết bơi khi ngã xuống nước, bị nước nhấn chìm chỉ sau 2-3 phút sẽ ngạt thở.

b. Triệu chứng

Nạn nhân có thể ở trong tình trạng:

– Giãy giụa, sặc trào nước, tim còn đập: trường hợp này nêu cấp cứu tốt, hầu như được cứu sống.

– Khi đã mêm man, tím tái khó cứu hơn. Tuy nhiên, vẫn còn hi vọng vì tim mới ngừng đập.

– Khi da nạn nhân đã trắng bệch hoặc tím xanh, đồng tử đã dãn rộng thì còn rất ít hi vọng.

c. Cấp cứu ban đầu và cách đề phòng

* Cấp cứu ban đầu:

– Vớt nạn nhân đang trôi nổi trên dòng nước bằng các phương tiện như phao, ném vật nổi hoặc dùng sào gậy để nạn nhân nắm lấy rồi kéo vào bờ, hoặc bơi lựa chiều phía sau để nắm tóc nạn nhân kéo vào bờ.

– Nếu nạn nhân đã mê thì nắm tóc, nắm tay, kéo chân hoặc vác, rồi bơi đưa vào bờ.

– Khi đưa được nạn nhân lên bờ:

+ Nhanh chóng dóc nước ra khỏi dạ dày bằng cách cầm chân dốc ngược đầu xuống nếu là trẻ em hoặc ác lên vai chạy xóc nếu là người lớn.

+ Móc đất, bùn, đờm, dãi, lấy răng giả (nếu có) ra khỏi miệng.

+ Hô hấp nhân tạo, kiên trì làm khoảng 20-30 phút.

+ Khi tự thở được nhưng còn hôn mê, phải để nạn nhân ở tư thế nằm nghiêng đầu về một bên để đường thở lưu thông và tránh hiện tường trào ngược.

+ Nhanh chóng, chuyển nạn nhân tới bệnh viện để được điều trị tiếp

* Cách đề phòng

– Chấp hành nghiêm các quy định về giao thông đường thủy và những quy định khi làm việc, luyện tập ở dưới nước.

– Tập bơi, nhất là những người thường xuyên lao động, luyện tập ở môi trường nước như sông, suối, ao, hồ, biển…

– Quản lí tốt trẻ em, không để trẻ em chơi đùa gần ao, hồ, sông, suối…

31. Say sóng, say ô tô, say máy bay

a. Đại cương

– Ở nước ta, với khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, khi lao động sinh hoạt ở môi trường nóng, nắng thường xảy ra say nóng, say nắng. Việc phòng say nóng, say nắng là rất cần thiết.

– Say nóng, say nắng là tình trạng rối loạn điều hòa nhiệt độ do môi trường nóng, nắng gây nên, cơ thể không còn tự điều hòa nhiệt độ được nữa.

b. Triệu chứng

– Triệu chứng xảy ra sớm nhất là tình trạng chuột rút. Trước hết ở tay, chân, sau đó đến các cơ ở lưng, bụng.

– Tiếp theo là nhức đầu, chống mặt, mệt mỏi, chân tay rã rời, khó thở.

– Triệu chứng say nóng điển hình thể hiện như sau:

+ Sốt cao 40-420C.

+ Mạch nhanh 120-150 lần/phút.

+ Thở nhanh trên 30 nhịp/phút.

+ Choáng váng, buồn nôn, sợ ánh sáng, nặng hơn có thể ngất, hôn mê, có thể kích động mê sảng, co giật như động kinh.

c. Cấp cứu ban đầu và đề phòng

* Cấp cứu ban đầu:

– Đưa nạn nhân vào nơi thoáng mát, bóng râm.

– Cởi bỏ quần áo để thông thoáng và dễ thở.

– Quạt mát, chườm lạnh bằng khăn ướt mát hoặc xoa cồn 450.

– Cho uống nước đường và muối, tốt nhất là dùng nước orezol hoặc nước đường chanh, muối.

Những trường hợp nặng hơn như hôn mê, co giật, sau khi sơ cứu phải được chuyển đến bệnh viện để cứu chữa kịp thời.

* Đề phòng

– Không làm việc, luyện tập và thi đấu thể thao dưới trời nắng gắt.

– Nếu buộc phải làm việc ở những nơi nắng, nóng phải đảm bảo thông gió tốt, đội mũ nón khi trời nắng.

– Ăn, uống đủ nước, đủ muối khoáng.

– Luyện tập để làm quen và thích nghi với môi trường nắng, nóng.

32. Nhiễm độc lân hữu cơ.

a. Đại cương

– Lân hữu cơ là các hợp chất hóa học như: Tiôphốt,Vôphatốc…dùng để trừ sâu bọ, côn trùng, nấm có hại. Trong nông nghiệp càng ngày càng được sử dụng rộng rãi, phổ biến.

– Do không tôn trọng nguyên tắc trong quá trình sử dụng và bảo quản nên đã để xảy ra những tai nạn đáng tiếc, những trường hợp nhiễm độc nặng gây chết người. Chất lân xâm nhập vào cơ thể bằng đường hô hấp, đường tiêu hóa và đường trực tiếp qua da.

b. Triệu chứng

– Trường hợp nhiễm độc cấp: Nạn nhân thấy lợm giọng, nôn mửa, đau quặn bụng, tiết nhiều nước bọt, vã mồ hôi, khó thở, đau đầu, đau các cơ, rối loạn thị giác… đặc biệt là đồng tử co hẹp, có khi chỉ nhỏ bằng đầu đinh ghim. Dấu hiệu này có thể giúp ta chẩn đoán, đáng giá được mức độ nặng nhẹ của nhiễm độc và theo dõi được kết quả điều trị.

– Trường hợp nhiễm độc nhẹ: Các triệu chứng trên xuất hiện muộn và nhẹ hơn, nếu được cấp cứu kịp thời sẽ giảm dần, sau một tuần có thể khỏi.

c. Cấp cứu ban đầu và đề phòng

Cấp cứu ban đầu:

+ Nhanh chóng dùng thuốc giải độc đặc hiệu. Chủ yếu dùng Atrophin liều cao.

+ Nếu thuốc vào đường tiêu hóa bằng một biện pháp gây nôn.

+ Nếu thuốc qua da, phải rửa bằng nước vôi trong, nước xà phòng.

+ Nếu thuốc vào mắt, rửa mắt bằng nước muối.

+ Nếu có điều kiện dùng thuốc trợ tim mạch, trợ sức: cafein, coramin, vitamin B1, C…cấm dùng mocphin.

+ Chuyển ngay đến các cơ sở y tế để kịp thời cứu chữa.

Đề phòng:

+ Chấp hành đúng các quy định, chế độ vận chuyển, bảo quản, và sử dụng.

+ Khi phun thuốc trừ sâu phải : pha đúng liều lượng, có các phương tiện để bảo vệ (quần áo, mũ lao động, khẩu trang, găng tay…) quay lưng về hướng gió, và chỉ nên phun 10 phút phải nghỉ, sau đó mới tiếp tục phun.

+ Không dùng thuốc trừ s6u để chữa ghẻ, diệt chấy, rận…

+ Khi tiếp xúc với thuốc trừ sâu không được ăn, uống, hút thuốc. Sau khi làm việc xong phải thay quần áo, tắm rửa sạch sẽ bằng nước xà phòng.

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here